Tiểu đoàn Brandenburger

Tiểu đoàn Bergmann

Tiểu đoàn Bergmann (có nghĩa là "thợ mỏ") là một đơn vị quân đội của Abwehr của Đức trong Thế chiến thứ hai, bao gồm năm đại đội do sĩ quan Đức chỉ huy gồm những người tình nguyện từ vùng Kavkaz thuộc Liên Xô. Tiểu đoàn được thành lập tại Neuhammer vào tháng năm 1941, từ những di dân và tù binh Liên Xô từ các nước cộng hòa Kavkaz. Ban đầu, đơn vị trực thuộc tiểu đoàn commando Brandenburger và đặt dưới sự chỉ huy của Oberleutnant Theodor Oberländer, các đơn vị được đào tạo tại Neuhammer và Mittenwald (Bavaria) với Gebirgiejäger. Sau đó một đơn vị gồm 130 lính gốc Gruzia được Abwehr đặt biệt danh là "Tamara-II" đã được đưa vào Bergmann. Đến tháng 3 năm 1942, có năm đại đội với khoảng 300 người Đức và 900 người Kavkaz.[47]

Vào tháng 8 năm 1942, Bergmann được đưa đến Mặt trận phía đông, nơi đơn vị có hoạt động đầu tiên của mình trong chiến dịch Bắc Kavkaz vào tháng 8 năm 1942. Đơn vị tham gia vào các hoạt động chống du kích ở khu vực Mozdok - Nalchik - Mineralnye Vody và tiến hành trinh sát và phá hoại trong khu vực Grozny. Vào cuối năm 1942, tiểu đoàn Bergmann đã thực hiện một cuộc tập kích thành công thông qua các tuyến đường của Liên Xô, mang theo khoảng 300 người đào tẩu khỏi Hồng quân, và bảo vệ sự rút lui của Đức khỏi Kavkaz. Nhóm Bergmann đã trải qua một loạt các cuộc giao chiến với các nhóm du kích Liên Xô và các lực lượng chính quy ở bán đảo Krym vào tháng 2 năm 1943 và bị giải thể như các đơn vị Ostlegionen khác, vào cuối năm 1943. Các đại đội cũ của Bergmann bị thu hẹp đáng kể đã được phái đi để thực hiện các chức năng của cảnh sát ở Hy LạpBa Lan.[48]

Tiểu đoàn Nachtigall và Roland

Tiểu đoàn Nachtigall, chính thức được gọi là Nhóm đặc nhiệm Nachtigall,[49] và Tiểu đoàn Roland, chính thức được gọi là Nhóm đặc nhiệm Roland, là đơn vị dưới quyền chỉ huy của đơn vị đặc nhiệm Abwehr Brandenburgers (Tiểu đoàn Brandenberg 1).[50] Đây là hai đơn vị quân sự được thành lập ngày 25 tháng 2 năm 1941 bởi người đứng đầu Abwehr Wilhelm Franz Canaris, người đã phản ứng với việc thành lập lực lượng "Lê dương Ukraina" dưới sự chỉ huy của Đức. Thành phần chủ yếu của đơn vị là những người Ba Lan gốc Ucraina chuyển đến theo yêu cầu của chỉ huy OUN Bandera.[51]

Vào tháng 5 năm 1941, bộ chỉ huy Đức quyết định chia đơn vị Lê dương Ukraina 700 người thành hai tiểu đoàn: Nachtigall ("Nightingale") và Tiểu đoàn Roland. Việc huấn luyện cho Nachtigall đã diễn ra tại Neuhammer gần Schlessig. Về phía Ukraina, chỉ huy là Roman Shukhevych và về phía Đức, Theodor Oberländer. (Oberländer sau này trở thành Bộ trưởng Liên bang cho Người di tản, Người tị nạn và Nạn nhân Chiến tranh ở Cộng hòa Liên bang Đức). Cựu thành viên Brandenburger Oberleutnant Tiến sĩ Hans-Albrecht Herzner làm chỉ huy quân sự của Tiểu đoàn. Đơn vị Nachtigall được trang bị quân phục tiêu chuẩn của Wehrmacht. Trước khi vào Lviv, họ thay cầu vai với dải băng màu xanh và màu vàng so với cầu vai tiêu chuẩn của Wehrmacht.[52] So với Nachtigall - vốn sử dụng quân phục Wehrmacht thông thường - Tiểu đoàn Roland được trang bị quân phục Tiệp Khắc với băng tay màu vàng in dòng chữ "Im dienst der Deutschen Wehrmacht" (Phục vụ cho Wehrmacht của Đức). Họ được trang bị mũ sắt của Áo từ thời Thế chiến thứ nhất.[53]

Tiểu đoàn được thành lập bởi Abwehr và được tổ chức bởi Richard Yary của OUN (b) vào tháng 3 năm 1941, trước khi Đức xâm lược Liên Xô. Khoảng 350 thành viên OUN của Bandera đã được đào tạo tại trung tâm huấn luyện Abwehr tại Seibersdorf dưới sự chỉ huy của cựu thiếu tá quân đội Ba Lan Yevhen Pobiguschiy. Tại Đức, vào tháng 11 năm 1941, các thành viên của lực lượng Lê dương Ukraina được tổ chức lại thành Tiểu đoàn Schutzmannschaft 201. Nó có biên chế 650 người, hoạt động được một năm tại Belarus trước khi tan rã.[54] Nhiều thành viên, đặc biệt là các chỉ huy, tiếp tục tham gia trong lực lượng Quân nổi dậy Ukraina và 14 thanh viên gia nhập Sư đoàn Waffen-SS Grenadier 14 (Sư đoàn Galician số 1) SS-Freiwilligen-Schützen-Division Galizien vào mùa xuân năm 1943.[lower-alpha 10]